Các sản phẩm làm tạo nên từ những làng nghề gốm sứ Việt Nam là sự kết hợp các tinh hoa của đất trời và từ trí óc, bàn tay khéo léo của người nghệ nhân.
Những sản phẩm từ gốm đã xuất hiện từ từ lâu đời, các làng gốm sứ trải dài khắp mọi miền đất nước của Việt Nam. Cho dù đã trải qua bao nhiêu khó khăn và biến cố, thăng trầm của lịch sử và cả trong kinh doanh thì mỗi làng nghề điều có nét đặc trưng và kỹ nghệ riêng mang đậm văn hóa Việt Nam, các sản phẩm làm từ gốm sứ luôn được mọi người đón nhận và ưu tiên sử dụng.
Ngay nay gốm sứ không đơn giản chỉ là vật dụng trong gia đình, mà nó mọi người dùng làm quà tặng trong các dịp đặc biệt bởi vẻ đẹp sang trọng, tinh tế và sự tiện dụng của nó trong cuộc sống.
Hãy cùng tìm hiểu những làng gốm sứ truyền thống Việt Nam!
1. Làng gốm Chu Đậu (huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương):
Đây là một trong những làng gốm sứ Việt Nam xuất hiện sớm nhất cho đến hiện nay, ra đời vào thế kỷ 13 và phát triển mạnh mẽ vào từ thế kỷ 14, nhưng đáng tiếc rằng cho đến thế kỷ 17 làng gốm này đã suy tàn và thất truyền cho đến ngày nay.
Khi tìm được những loại gốm sứ của vùng này là từ xác con tàu đắm đã được trục với ở vùng biển Cù Lao Chàm, bên cạnh đó trong những bảo tàng của một số nước Châu Âu, vẫn còn lưu giữ một số hiện vật của làng gốm Chu Đậu này với đỉnh cao là nghệ thuật vẽ tay cũng như nhiều dòng men quý như lớp men ngọc, men nâu, men trắng… nhưng phổ biến nhất vẫn là loại men trắng trong kết hợp với những họa tiết được khắc, vẽ đắp nổi mang nét phóng khoáng- hài hòa- tinh tế , cùng với những màu: xanh, vàng, đỏ nâu, xanh lục….
Qua đó, có thể thấy rằng, từ xa xưa Việt Nam chúng ta đã vang danh trên thế giới về một loại sản phẩm gốm chất lượng và đã xuất khẩu ra bên ngoài lãnh thổ.
2. Làng gốm Bát Tràng (huyện Gia Lâm, Hà Nội):
Làng gốm sứ Bát Tràng nằm bên cạnh sông Hồng có bề dày lịch sử và xuất hiện vào khoảng thế kỷ 15. Làng nghề gốm sứ Bát Tràng nằm tại xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, Hà Nội cách trung tâm thành phố hơn 10km về phía Đông Nam.
Trong quá khứ, làng gốm sứ Bát Tràng là một gò đất cao gần cạnh sông rất thuận tiện cho việc làm gốm và giao thông đi lại. Trải qua thời gian, đến nay làng gốm sứ Bát Tràng vẫn giữ được những dòng men cổ và những sản phẩm được sản xuất theo phương pháp thủ công. Từ chất liệu là đất sét trắng cùng với đôi bàn tay khéo léo đã tạo ra những sản phẩm chất lượng, tinh xảo và đòi hỏi một quy trình nghiêm ngặt. Hiện nay, tại Bát Tràng có hơn 600 cơ sở sản xuất và chủ yếu là các hộ gia đình trong làng.
3. Làng gốm Phù Lãng:
Làng gốm Phù Lãng thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Quá trình hình thành và phát triển cùng với làng Bát Tràng, nhưng những sản phẩm của gốm Phù Lãng chủ yếu là đồ gia dụng, vãi, chum từ chất liệu đất sét đỏ và được tạo hình trên bàn xoay.
Trong những năm gần đây, làng gốm Phù Lãng đã được phát triển lại nhờ vào những nghệ nhân sinh ra từ làng quyết tâm thay đổi và gây dựng lại danh tiếng đã bị mai một. Chuyển hướng sang sản xuất gốm mỹ nghệ, sử dụng màu sắc để trang trí trên sản phẩm, tuy những mẫu mã của gốm Phù Lãng không được đa dạng như gốm Bát Tràng song cũng đã có những bước tiến khá quan trọng và đã dần khôi phục những giá trị truyền thống kết hợp những kỹ thuật hiện đại nhằm mang đến gốm Phù Lãng sự tươi mới và thoát khỏi sự suy thoái.
4. Làng gốm Thổ Hà (Bắc Ninh):
Phát triển cùng giai đoạn với làng Bát Tràng, làng Phù Lãng và cũng nổi tiếng với những sản phẩm làm từ đất sét vàng, sét xanh, ít sạn và tạp chất dễ tạo hình, gốm mộc phủ men da lươn và chủ yếu là lu, chậu sành, …
Những sản phẩm của làng gốm Thổ Hà có những đặc điểm khá tương đồng với làng gốm Phù Lãng. Nét đặc trưng của gốm Thổ Hà là không dùng men, sản phẩm được nung ở nhiệt độ cao tự chảy men và thành sành. Gốm có màu nâu sẫm, thâm tím, gõ thành tiếng như thép, đựng chất lỏng không thấm, chất rắn đầy chặt không lo ẩm móc, bền và giữ màu tốt theo thời gian.
5. Làng gốm Phước Tích (Thừa Thiên-Huế):
Làng gốm Phước Tích chuyên sản xuất cho Hoàng gia, cụ thể là triều Nguyễn, nguyên liệu chủ yếu được làm từ loại đất sét có màu xám đen và sản phẩm là chủ yếu là gốm gia dụng như lu, chậu, nồi đất, siêu thuốc…với hoa văn đơn giản.
Loại đất sét làm gốm ở đây sau khi nung có màu xám đen. Các công cụ sản xuất của người thợ Phước Tích rất thô sơ như thêu, nề đất, bàn chuốt, bàn xên hoàn toàn bằng thủ công. Người thợ chế tạo sản phẩm trực tiếp bằng tay. Lò nung được sử dụng là lò sấy và lò ngửa.
Theo thời gian làng gốm này đã suy tàn. Trong những năm gần đây, các nhà chức trách khôi phục lại theo hướng sản xuất Mỹ nghệ nhưng chưa mang lại nhiều thành công.
6. Làng gốm Thanh Hà (Hội An – Quảng Nam):
Làng gốm Thanh Hà nằm tại Hội An với tuổi đời khoảng 500 năm, nổi tiếng với các sản phẩm gốm đất nung bền đẹp.
Với nguyên liệu khá đặc biệt, lấy từ đất sét nâu dọc sông thu Bồn có độ dẻo và kết dính cao, hầu hết những sản phẩm của làng gốm Thanh Hà cho ra màu đỏ cam, nhẹ và xốp. Các sản phẩm được sản xuất bằng khuôn và trang trí bằng hình thức khắc lộng, khi bạn có dịp đến với Quảng Nam và tham quan làng gốm thì sẽ thấy những sản phẩm chủ yếu như đèn, tranh và tượng trang trí, …
7. Làng gốm Bàu Trúc (Bình Thuận):
Làng gốm Bàu Trúc là làng gốm sứ của người Chăm và cổ nhất trong khu vực Đông Nam Á.
Những sản phẩm gốm được tạo tác hoàn toàn bằng tay và các hoa văn trang trí trên gốm là những đường khắc vạch hình sông nước, chấm vỏ sò và hoa văn thực vật, có cả hoa văn móng tay trên vai cổ gốm rất mộc mạc, gần gũi với người dân.
Sản phẩm gốm Bàu Trúc cá màu xương đất và không đồng đều do trong quá trình nung lửa bị cháy táp nhiều và gốm Bàu Trúc không sử dụng nung trong lò mà nung ngoài trời, có đốt củ và phủ rơm với nhiệt độ lên khoảng 700 – 900 độ c. Điều đặc biệt của gốm Bàu Trúc là không phủ men và sản phẩm nào giống nhau.
8. Làng gốm Biên Hòa (Đồng Nai):
Hai yếu tố quan trọng tạo nên vẻ đẹp đặc trưng của làng gốm Biên Hòa là nguồn nguyên liệu cao lanh và đất sét màu chất lượng cao cùng với trình độ của thợ gốm có tay nghề.
.
Là sự kết hợp giữa gốm Cây Mai và nghệ thuật trang trí của gốm nước Pháp, với những sản phẩm như chậu, voi, con thú hay tượng, cùng với nghệ thuật khắc chìm, vẽ men kết hợp với màu men tạo nên một sản phẩm tinh xảo. Ngoài ra, gốm Biên Hòa là loại xốp, có xương đất màu ngà và được nung nhẹ trên lửa.
Ngày nay, gốm Biên Hòa không còn giữ được vị trí đỉnh cao, tuy rằng vẫn có những mặt hàng xuất khẩu và thường được sản xuất theo đơn.
9. Làng gốm Lái Thiêu – Tân Phước Khánh (Bình Dương):
Làng Gốm Lái Thiêu – Tân Phước Khánh – Thủ Dầu Một (Bình Dương) xuất hiện vào cuối thế kỷ 19. Nhờ vào nguồn đất sét cao lanh và nguyên liệu củi đốt dồi dào nên đa hình thành nên làng gốm sứ.
Là sự kế thừa của gốm Cây Mai với những sản phẩm đồ gia dụng, đồ mỹ nghệ. Gốm Lái Thiêu ngày nay đã không còn tồn tại mà thay vào đó là sự phát triển theo quy mô công nghiệp và xu hướng thị trường. Vậy nên, những dấu tích xưa cũ của làng gốm Lái Thiêu gần như đã không còn.
Tất cả các sản phẩm đều được làm bằng tay và nung bằng lò củi truyền thống. Sản phẩm phục vụ chủ yếu cho thị trường xuất khẩu nên ngày nay gốm Bình Dương đã đi theo hướng sản xuất công nghiệp, đầu tư máy móc cơ sở hiện đại nhằm mang đến những sản phẩm chất lượng đạt yêu cầu cao.
10. Làng gốm Cây Mai (Thành phố Hồ Chí Minh):
Làng gốm Cây Mai được hình thành vào khoảng thế kỷ 17 tại Sài Gòn, do bộ phận người Hoa sang nhập nhập cư tại Việt Nam.
Gốm Cây Mai có nhiều nét đặc trưng riêng và có sự kết hợp giữa các màu sắc xanh coban, xanh rêu, nâu da lươn trên nhiều loại sản phẩm. Cho đến nay, gốm Cây Mai đã không còn tồn tại nhưng bạn vẫn có thể bắt gặp chúng ở những bức tường ở một số chùa của quận 5, 6.
11. Làng gốm Vĩnh Long (Vĩnh Long):
Làng gốm Vĩnh Long ra đời từ khá sớm chuyên sản xuất các hàng gốm sân vườn từ đất sét đỏ. Là dòng gốm không men cộng với đặc tính nhiễm phèn nên khi nung xong sản phẩm gốm đỏ Vĩnh Long thường có các vân trắng do phèn tạo thành. Đặc biệt, đất Vĩnh Long chỉ kết khối ở 900 độ C.
Ngày nay các người thợ Vĩnh Long đã không còn nung gốm bằng lò than thủ công như trước mà thay bằng lò gas, sấy sản phẩm bằng điện để các sản phẩm được nâng cao về chất lượng và có kích thước tương đối lớn và chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu.
Nguyên liệu chính là đất sét đỏ, với đặc tính nhiễm phèn nên khi đưa sản phẩm nung xong thì gốm Vĩnh Long thường xuất hiện các vân trắng.
11. Làng gốm Khmer (An Giang):
Nghề gốm tại làng gốm Khmer khác biệt với các làng gốm còn lại ở chỗ công việc này hầu như do những người phụ nữ lớn tuổi và có kinh nghiệm đảm nhiệm. Việc làm gốm thường diễn ra vào mùa nông nhàn. Chỉ có đất ở ven núi Nam Quy – đất sét xám pha với cát mịn mới được dùng để làm gốm. Phụ nữ Khmer cũng không dùng bàn xoay, mà chỉ dùng một mặt bàn nhỏ trong vườn.
Những sản phẩm của làng gốm khmer chủ yếu còn sản xuất theo cách truyền thống.
Những sản phẩm của làng gốm khmer chủ yếu còn sản xuất theo cách truyền thống.
Đây cũng là kỹ thuật làm gốm khá nguyên thuỷ còn bảo lưu ở một số ít dân cư các dân tộc ở Việt Nam. Quá trình định hình và hoàn thiện sản phẩm gốm được tiến hành trên một mặt bàn nhỏ trong vườn. Gốm nung có màu đỏ nhạt hoặc vàng sậm, độ nung thấp. Gốm cổ truyền Khmer An Giang là một trong những nét văn hóa hòa quyện giữa hồn đất và hồn người Khmer trên mảnh đất Việt Nam.
Mỗi làng gốm sứ Việt Nam cho dù đang tồn tại, phát triển hoặc đã ngừng hoạt động vẫn thành công trong việc ghi dấu ấn, thể hiện và truyền bá những văn hóa nét đặc trưng của mỗi làng nghề và vẻ đẹp trong văn hóa Việt Nam.